Trên đây đã lược dẫn văn của luận Thành duy thức. Muốn hiểu rõ tường tận nghĩa lý xin xem văn của luận ấy, quyển thứ 3 và quyển thứ 4. Việc minh chứng có thức thứ tám lý lẽ vô biên, xem đó không phải chỉ có 10 nghĩa chứng minh có thức này mà thôi. Trong luận Du già cũng có 8 nghĩa chứng minh có thức này, sợ phiền nên không dẫn. Như vậy đã dẫn giải xong bài tụng Thập chứng.
Do vì hàng tiểu thừa không tin có thức thứ tám này mà ngài Hộ Pháp luận chủ đã dẫn dụ nhiều lần sao cho sáng tỏ, đặt lại vấn đề rồi giảng rõ, cho nên có câu tụng: Do thử năng hưng luận chủ tranh.
Hạo hạo tam tàng bất khả cùng
(Có 3 đặc tánh sâu rộng, nói không thể cùng tận về A lại da, đó là: năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng)
Hạo hạo, là sâu rộng. Tam tàng, là năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng. Thức này có năng tánh duy trì chủng tử phát sanh các pháp (, làm nhân cho các pháp, tức chủng tử sanh hiện hành), nên gọi là năng tàng. Thức này có năng tánh tiếp nhận các pháp huân tập chủng tử (, làm quả cho các pháp, tức hiện hành sanh chủng tử), nên gọi là sở tàng. Thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám làm tự ngã, nên gọi là ngã ái chấp tàng. Vì vậy, (kinh Ðại thừa A tỳ đạt ma) có bài tụng rằng:
Chư pháp ư thức tàng
Thức ư pháp diệc nhĩ
Cánh hỗ vi quả tánh
Diệc thường vi nhân tánh.
(Các pháp (= các chuyển thức) đối với tàng thức thế nào thì tàng thức đối với các pháp cũng vậy, làm quả cho nhau mà cũng làm nhân cho nhau.)
Ý của bài tụng này nói, thức A lại da cùng các chuyển thức triển chuyển tương sanh, hỗ tương nhau làm nhân, làm quả trong mọi thời gian. Nhiếp đại thừa luận nói, A lại da với các pháp tạp nhiễm đồng thời làm nhân duyên cho nhau. Dẫn luận này để thấy thức thứ tám có đủ 3 nghĩa: năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng. Thể và dụng của A lại da rất sâu rộng, nên hàng phàm phu và tiểu thừa không thông đạt được. Kinh giải thâm mật cũng nói, thức A đà na cùng cực vi tế. Xin xem chú giải ở văn trên. Dẫn bài tụng này để chứng minh danh nghĩa chấp trì của thức thứ tám, qua đó thấy hàng phàm phu và nhị thừa không thông đạt được.
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
(Từ nơi biển tàng thức sâu thẳm, do gió cảnh giới thổi tới mà 7 cơn sóng chuyển thức hiện khởi trên mặt biển ấy)
ÐÂy là nói A lại da, như nước, (làm nhân) hiện khởi các chuyển thức (thọ dụng quả báo khổ vui). Các chuyển thức, như sóng, hiện hành rồi trở lại (làm nhân) huân tập chủng tử nơi A lại da. Bốn duyên là, căn (Mạt na), cảnh (căn thân, thế giới), tác ý và chủng tử, dụ như gió. Nếu gió 4 duyên thường xuyên tác động nước A lại da hiện hành các chuyển thức (= chủng tử sanh hiện hành), đồng thời sóng 7 thức thường hiện khởi trở lại huân tập chủng tử nơi A lại da (= hiện hành sanh chủng tử). Về mặt dụ, nhiều gió thổi đến thì nhiều sóng lớn sanh, ít gió thổi đến thì ít sóng nhỏ khởi. Về mặt pháp, nhiều duyên thì nhiều thức sanh, ít duyên thì ít thức khởi. Cho nên kinh Lăng già nói, như biển gặp duyên gió mà khởi ra đủ thứ sóng mòi v.v…, xin xem văn trên.
Thọ huân, trì chủng, căn thân khí
(A lại da có năng tánh thọ huân và trì chủng. Chủng tử, căn thân và khí thế giới đều là cảnh sở duyên của A lại da)
Ðây là nói thức thứ tám có năng tánh tiếp nhận huân tập từ 7 thức trước, cũng như năng tánh duy trì chủng tử các pháp hữu lậu và vô lậu (= các pháp nhiễm tịnh). Năng tánh duy trì chủng tử (trì chủng) của thức thứ tám cho thấy thức này có cái đặc tánh làm chủ thể nên bao quát mọi tổng báo (và biệt báo trong 3 cõi, đường lành đường dữ).
Năng tánh tiếp nhận huân tập (thọ huân) của thức này cần đủ 4 nghĩa: một là, kiên trụ (= liên tục ổn định); hai là, vô ký (= trung tánh); ba là, khả huân (= khả năng thọ huân); bốn là, hòa hợp với năng huân (= cùng thân cùng lúc với năng huân).
Kiên trụ, nghĩa là từ ban sơ vô thỉ đến chung cuộc cứu cánh chỉ có một loại (thức) tiếp nối liên tục là thức thứ tám. Thức thứ bảy cũng có đặc tánh như vậy, tại sao không có nghĩa sở huân (= thọ huân)? Xét nghĩa thứ 2 rồi mới chọn lọc.
Vô ký, nghĩa là như tánh chất của mè, không thơm không hôi. Khi ướp với hương liệu thì mè thành ra có cái hơi thơm của hương liệu. Khi xông với đồ hôi thì mè thành ra có cái mùi thúi của đồ hôi. Một vật vốn là có mùi thơm hay mùi hôi, thì dù cho có dùng cái khác xông ướp vật đó cho hôi đi hay thơm đi, trải qua nhiều ngày tháng, rốt cuộc chẳng có thể biến đổi cái mùi vốn có của nó. Cũng vậy, thức thức bảy vốn có tánh chất hữu phú vô ký (trung tánh mà có ô nhiễm), cho nên không có đặc tánh sở huân. Thức thứ tám và 5 thức trước có đủ 2 nghĩa trên nên thích ứng nghĩa sở huân. Xét nghĩa thứ 3 rồi mới chọn lọc.
Khả huân, nghĩa là có tánh chất tự tại. Nơi không tự tại thì không phải là nơi tiếp nhận huân tập. Thức thứ tám của người khác có đủ 3 nghĩa: kiên trụ, vô ký, khả huân, có phải là có nghĩa sở huân được sao? Xét nghĩa thứ 4 rồi mới chọn lọc.
Hòa hợp với năng huân, nghĩa là năng huân và sở huân phải đồng thời, đồng xứ mới hòa hợp được. Thứ thứ tám của người khác và thức thứ tám của mình thì khác nhau, không liên quan nhau. Nếu năng huân của mình mà có thể huân tập vào thức thứ tám của người khác, thì cũng như nói mình ăn mà đòi người khác no, được sao? Vì lẽ thức thứ tám có đủ 4 nghĩa trên nên chỉ nó mới có năng tánh tiếp nhận huân tập (= thọ huân).
Câu tụng chỉ nói thọ huân của thức thứ tám. Hình ảnh biểu hiện của 7 thức trước (trong A lại da) chính là năng tánh huân tập (năng huân). Trong các bài tụng về 7 thức trước đã ẩn lược từ ngữ năng huân.
Năng huân có 4 nghĩa: một là, có sanh diệt (= có sanh diệt chuyển biến); hai là, có thắng dụng (= có cường lực tư duy và thiện ác); ba là, có tăng giảm (= có khi tăng khi giảm); bốn là, hòa hợp với sở huân (= cùng thân cùng lúc với sở huân).
Có sanh diệt, nghĩa là pháp nào có tác dụng sanh trưởng, pháp ấy có tánh năng huân. Vậy thì, vô ký, sắc pháp, tâm pháp đều có tánh sanh diệt, có thể là năng huân chăng? Xét nghĩa thứ 2 rồi mới chọn lọc.
Có thắng dụng, nghĩa là căn cứ sức mạnh ưu thắng của tánh thiện ác, hữu phú (ô nhiễm) mà gọi là có thắng dụng. (Ðiều này loại ra tâm, tâm sở thuộc dị thục (= bị chi phối bởi nghiệp quá khứ), vì thế lực yếu kém của chúng.) Vậy thì, ở quả vị Phật, pháp (thiện viên mãn của Phật chứng) là cường thắng, sao chẳng phải là năng huân. Xét nghĩa thứ 3 rồi mới chọn lọc.
Có tăng giảm, nghĩa là có tổn ích. Ở quả vị Phật (pháp thiện viên mãn của Phật chứng) không có tổn ích (= không tăng, không giảm) nên không thể là năng huân. Tổn ích là nên cương thì cương, hợp nhu liền nhu, việc làm có thể làm xong. Bảy thức
trước có đủ 3 nghĩa trên, vậy bản thân chúng có khả năng huân tập nơi người khác không? Nói cách khác, chúng có hòa hợp với sở huân không?
Hòa hợp với sở huân, nghĩa là thức thứ 8 và các tâm sở đều có thể là đối tượng cho sự huân tập của 7 thức trước. Thức thứ tám thì có tánh vô ký; các tâm sở thì đủ cả tánh thiện, tánh ác. Sở huân, như vậy, là thức thứ 8, các tâm sở không dự phần vào. Nếu cho tâm sở có thể tiếp nhận huân tập thì mắc lỗi lầm rất lớn, chớ nên hỏi vặn.
Chủng tử, căn thân và khí thế giới đều là cảnh sở duyên của thức thứ tám. Khi nói thức thứ tám có đặc tánh duy trì chủng tử (trì chủng) thì cũng có nghĩa là nói nó có đặc tánh tiếp nhận huân tập (thọ huân).
Khứ hậu, lai tiên, tác chủ ông
(A lại da là chủ thể của nhân duyên: hiện hành sanh chủng tử hay chủng tử sanh hiện hành, đều là A lại da và các chuyển thức của nó. A lại da là chủ thể của tổng báo: đi thì đi sau, đến thì đến trước)
Thức thứ tám là chủ thể của tổng báo, nên hữu tình khi đầu thai thì nó là vị chủ nhân ông đến trước hết, khi mạng chung nó bỏ đi sau cùng.
Bất động địa tiền, tài xả tàng
(Từ Bất động địa trở lên, thức thứ tám mới xả cái tên A lại da hay tàng thức)
Thức thứ tám từ nhân hữu lậu đến quả vô lậu lược có 3 giai đoạn (= trạng thái) phát triển: một là, hiện hành sự chấp tàng ngã ái (Bồ tát từ thất địa trở xuống, với tên A lại da); hai là, kết quả của nghiệp thiện ác (từ vô thỉ đến bồ tát Kim cang tâm, với tên thức dị thục); ba là, chấp trì dòng tương tục (chấp thọ sắc căn, chấp thủ tự thể, với tên thức A đà na). Nói cách khác, từ vô thỉ đến Bất động địa, thức thứ tám được mệnh danh là A lại da, có nghĩa tàng thức. Lại nữa, từ vô thỉ đến giải thoát đạo (= Kim cang đạo), có tên Tỳ bá ca, có nghĩa là thức dị thục. Do có đủ 3 nghĩa sau mà gọi là dị thục: một là, biến dị thục (quả chín do nhân biến đổi); hai là, dị thời thục (nhân và quả cách thời mới chín muồi); ba là, dị loại thục (quả khác nhân, nhưng do nhân mà quả thành thục). Sau quả vị Phật đến tận vị lai vô tận, có tên là thức vô cấu.
A lại da là nói thức thứ tám nhiếp tàng các pháp tạp nhiễm và hữu tình chấp nó như là tự ngã nội tại. Thức dị thục là nói A lại da do nghiệp lực thiện ác huân tập mà thành quả báo. Chấp trì dòng tương tục là nói thức A đà na chấp thọ chủng tử (của tướng, danh và phân biệt) và duy trì hiện hành (của thân thể và thế giới của thân thể) không có gián đoạn, từ giai đoạn hữu lậu cho đến giai đoạn vô lậu. Từ Bất động địa trở lên, thức thứ tám mới xả cái tên A lại da hay tàng thức, (vì không có pháp tạp nhiễm để chấp tàng), vì xả bỏ được các phiền não thô trọng, vì thức này không còn bị thức Mạt na chấp làm tự ngã nội tại.
Y cứ kinh luận, lược nói về chỗ thoát ra của A lại da nơi cái thân sở y có thể tóm gọn trong bài tụng sau:
Thiện nghiệp tùng hạ lãnh
Ác nghiệp tùng thượng lãnh
Nhị giai chí ư tâm
Nhất xứ đồng thời xả.
Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên
Nhân tâm, ngạ qủy phúc
Bàng sanh tất cái ly
Ðịa ngục cước bản xuất.
(Nghiệp thiện thì thân thể dần dần phát lạnh từ dưới trở lên, nghiệp ác thì thân thể dần dần phát lạnh từ trên sắp xuống, nghiệp thiện ác đều không ngoài cái tâm khi sanh khi tử, đến một chỗ nào đó trên thân thể thì nghiệp thiện ác cùng tâm ấy rời bỏ thân thể. Nóng ở nơi đỉnh đầu là về cõi thánh, nơi mắt là sanh về cõi trời, nơi tim (ngực) là tái sanh làm người, nơi bụng thì làm ngạ qủy, từ đầu gối trở xuống là làm súc sanh, nơi hai bàn chân thì đọa địa ngục.)
Giữa kinh và luận có sự sai biệt. Kinh thì nói có 6 cõi khác nhau, luận thì nói có 2 đường thiện ác. Xét cho cùng thì 6 cõi cũng không ngoài thiện ác. Chữ tâm trong câu thứ 3 là chỉ tâm sanh tưû, được giải ở trên.
Kim cang đạo hậu, dị thục không
(Sau khi vào được Kim cang đạo thì tên Dị thục cũng không còn)
Ðến Kim cang đạo (= Như lai địa) thì chủng tử huân tập của 2 chướng (: phiền não chướng và sở tri chướng) và những chủng tử, hiện hành thuộc hữu lậu vĩnh viễn được đoạn trừ, vì vậy xả bỏ cái tên thức dị thục. Nhân và quả vô lậu thấp kém cũng đều xả hết.
Ðại viên, vô cấu đồng thời phát
Phổ chiếu thập phương trần sát trung
(Thức vô cấu tương ưng với Ðại viên cảnh trí mà đồng thời phát sanh, có hoạt dụng chiếu khắp 10 phương các cõi nước nhiều như vi trần)
Ðến địa vị chuyển y Phật quả [64"> , thức thứ tám thành thể vô lậu cực kỳ thanh tịnh, gọi là thức vô cấu. Thức này cùng tương ưng với Ðại viên cảnh trí mà đồng thời phát khởi diệu dụng chiếu khắp 10 phương