Ý thức được nhận diện dưới 5 hình thái:
1. Ðịnh trung độc đầu ý thức (định trung ý thức): là ý thức duyên với cảnh trong định. Cảnh trong định có lý (= định tự tại sở sanh sắc) và sự. Sự lại có cực lược sắc [41"> và cực huýnh sắc [42">. Tóm lại, ở trong thiền định, ý thức tự tại sanh ra các sắc pháp thuộc pháp xứ [43"> (= pháp xứ sở nhiếp sắc).
2. Tán vị độc đầu ý thức [44">(độc tán ý thức): là ý thức duyên với thọ sở dẫn sắc [45"> (và biến kế sở sắc [46">), nghĩa là ý thức trong sự biểu hiện biến kế khởi ra các sắc pháp thuộc pháp xứ. Như hoa đốm giữa hư không, hình ảnh trong gương, màu sắc phác họa đều xếp vào loại sắc pháp này, tức pháp xứ sở nhiếp sắc.
3. Mộng trung độc đầu ý thức (mộng trung ý thức): là ý thức duyên với cảnh trong mộng.
4. Minh liễu ý thức (ngũ câu ý thức): là ý thức khởi lên một lượt với 5 thức trước cùng duyên với 5 trần.
5. Loạn trung ý thức: là ý thức tán loạn rồi khởi ra sự cuồng loạn biểu hiện qua 5 căn. Như người mắc bịnh hoạn nhiệt thấy màu xanh ra màu vàng, chẳng phải do nhãn thức loạn mà là ý thức cuồng loạn.
Ðịnh trung ý thức thuộc hiện lượng. Ðộc tán ý thức đi với tỷ lượng và phi lượng. Mộng trung ý thức và loạn trung ý thức đeàu là phi lượng. Minh liễu ý thức gồm cả 3 lượng, nhưng phần nhiều là hiện lượng, phần ít là tỷ lượng và phi lượng.
Ba cảnh là tánh cảnh, đới chất cảnh và độc ảnh cảnh. Tánh cảnh đã giải ở chương trước, nay giải thích thêm cùng với đới chất cảnh và độc ảnh cảnh.
1. Tánh cảnh: là căn và trần thật sự do 8 pháp năng sở tạo thành, (có khi) là định quả sắc [47"> thật sự, đều do chủng tử thật sự sanh khởi. Tánh cảnh chỉ có hiện lượng: tướng phần của 5 thức trước và tướng phần của thức thứ 8. Tánh cảnh là các cảnh thật sắc làm đối tượng sở duyên của ngũ câu ý thức [48">. Tánh cảnh là tự thân của thật tại không mang danh ngôn (khái niệm), không bị biến hình vì tác dụng phân biệt tỷ giảo của nhận thức. Trí căn bản khi duyên chân như cũng là tánh cảnh, do cái dụng của trí vô phân biệt, nhậm vận thể hội (chân như).
Tánh cảnh chia thành 2 loại:
a. Vô chất tánh cảnh: đã nói ở trên.
b. Hữu chất tánh cảnh: hoàn toàn không có nghĩa của vô chất tánh cảnh, chỉ là phần huyễn tướng (không có nghĩa thật tại), đứng trên phương diện ý nghĩa của sắc chất mà tạm nói là tánh cảnh. Do có tính giả thuyết nên gọi là hữu chất tánh cảnh.
2. Ðới chất cảnh: có 2 loại:
a. Chân đới chất cảnh: lấy tâm duyên tâm (như thức thứ 7 duyên với tướng kiến phần của thức thứ 8), ở giữa hai tâm, tướng phần của tâm năng duyên và tướng phần của tâm sở duyên cùng liên đới sanh khởi, gọi là chân đới chất.
b. Tợ đới chất cảnh: lấy tâm duyên sắc (như ý thức nhớ lại các cảnh đã qua, và cảnh đây chỉ là những bóng dáng của trần cảnh [pháp trần">, không phải tự tướng của cảnh), ở giữa tâm và sắc, tướng phần (của cảnh sở duyên) chỉ từ kiến phần (của tâm năng duyên) sanh khởi. Tính chất vừa liên đới, vừa chuyển biến (biến đới) nên gọi là tợ đới chất cảnh.
3. Ðoäc ảnh cảnh: có 2 loại:
a. Vô chất độc ảnh cảnh: Ý thức tạo dựng thế giới ảnh tượng (tướng phần) không thật như hoa đốm giữa hư không, sừng thỏ, các ảnh tượng dĩ vãng, tương lai … Các ảnh tượng đó và ý thức sanh ra từ cuøng một chủng tử. Nói tóm, các ảnh tượng hoa đốm giữa hư không v.v… đều không phải thật chất, chỉ là sản phẩm tưởng tượng của ý thức.
b. Hữu chất độc ảnh cảnh: Ý thức tái tạo những ảnh tượng khi duyên cảnh qua 5 căn, bằng chủng tử và hiện hành (của A lại da liên tục đắp đổi: năng huân và sở huân), vì vậy những ảnh tượng sanh khởi đó có bản chất vay mượn. Các ảnh tượng đó (tướng phần) và ý thức (kiến phần) sanh ra từ cùng một chuûng tử, nên gọi là độc ảnh.
Cảnh là sở duyên. Thức là năng duyên. Cảnh và thức đều có thể tánh riêng. Thể của Tánh cảnh, xem giải thích ở trên. Thức năng duyên: trừ thức Mạt na, 7 thức còn lại đều sử dụng bản thân tâm thức và những tâm sở phụ thuộc làm thể tánh. Thể của độc ảnh cảnh là lấy kiến phần của ý thức tự biến hiện giả lập làm tướng phần; (rõ ràng) thể của thức năng duyên chính là tự thân ý thức và những tâm sở phụ thuộc. Thể của đới chất cảnh là (thức năng duyên) tự biến khởi, ở khoảng giữa (thức và cảnh) giả lập ra tướng phần (có bản chất sở y chứ không có tự tướng của cảnh); (ở đây) thể của thức năng duyên là ý thức, thức Mạt na và những tâm sở phụ thuộc. Vì vậy, câu tụng trên nói thức thứ sáu có đối tượng nhận thức gồm cả 3 cảnh.
Ngũ câu ý thức khi ở trong trường hợp tri giác thuần túy [49">, thì đạt tới cảnh tự tướng, chính là Tánh cảnh. Ý thưùc duyên tâm và tâm sở là Ðới chất cảnh. Ý thức duyên các pháp không có thật thể [50"> là Ðộc ảnh cảnh. Ba trường hợp trên đây là đứng về lĩnh vực phàm phu hữu lậu mà nói. Ðứng về lĩnh vực Thánh giả vô lậu thì 8 thức đều duyên 3 cảnh.
Nói về 3 cảnh, ngài Huyền Trang, dựa theo thuyết của ngài Hộ Pháp, có soạn ra bài tụng rằng:
Tánh cảnh bất tùy tâm
Ðộc ảnh duy tùng kiến
Ðới chất thông tình bản
Tánh chủng đẳng tùy ứng.
(Tánh cảnh là lĩnh vực tự thân của thực tại không chịu tác dụng của tâm phân biệt [bất tùy tâm">. Ðộc ảnh cảnh là thế giới ảnh tượng do ý thức tạo dựng khi nó hoạt động độc lập, vì vậy Ðộc ảnh cảnh lấy kiến phần của ý thức tự biến làm thể [duy tùng kiến">. Ðới chất cảnh liên hệ [liên đới"> với tình thức [ý thức"> và căn bản thức [A lại da thức">, là lĩnh vực của ý tượng [đối tượng của ý thức"> mà trong đó tướng phần sở duyên được cấu tạo trên nền tảng kiến phần của tình thức hay căn bản thức [thông tình bản">. Tánh chủng là A lại da thức và các thức khác, tùy theo hoạt dụng của mỗi thức mà tương ưng với Tánh cảnh, Ðộc ảnh cảnh hay Ðơùi chất cảnh [đẳng tùy ứng">).
Tam giới luân thời dị khả tri
(Dễ biết được hành tướng của thức thứ sáu khi nó luân chuyển trong 3 cõi)
Tam giới, đã giải thích ở chương trước. Luân, là luân chuyển. Câu tụng muốn nói, thức thứ sáu qua lại ba cõi rất dễ biết, do hành tướng của nó hiển bày một cách rõ ràng và hơn hẳn các thức khác. Ý thức (đưa con người đến các nẻo đường sanh tử hay giải thoát, bởi lẽ nó) là động lực lớn nhất và chủ yếu làm phát sanh hành động của thân thể và ngôn ngữâ: động thân phát ngữ độc vi tối.
Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất
(Thức thứ sáu thích ứng với 51 loại tâm sở)
Trong 8 thức tâm vương chỉ có thức thứ sáu là tương ưng cả 51 món tâm sở, cùng hỗ tương nhau, không chống trái nhau. Năm tâm sở biến hành, 5 tâm sở biệt cảnh, 11 tâm sở thiện, 3 phiền não căn bản (tham, sân, si), 2 phiền não trung tùy, 8 phiền naõo đại tùy, tất cả đã giải ở chương trước. Chương này chỉ giải 3 phiền não căn bản còn lại (mạn, nghi, ác kiến), 10 phiền não tiểu tùy và 4 tâm sở bất định.
Ba căn bản phiền não là: mạn, nghi và ác kiến.
1. Mạn (kiêu ngạo): Ðặc tánh của tâm sở này là cậy ỷ (tài năng hay thế lực) mình mà tỏ thái độ cao ngạo, khinh khi. Hoạt dụng của mạn là làm nhân sanh ra các tội khổ và làm chướng ngại tâm không kiêu ngạo. Người có tâm kiêu ngạo thì tâm lý cất cao, không có sự khiêm tốn đối vơùi tánh đức (vô lậu của bản tâm) và người có đạo đức; do đây, dòng sanh tử luân chuyển không cùng, chịu các khổ não.
2. Nghi (hoài nghi): Ðặc tánh của tâm sở này là do dự (hoài nghi, hoang mang) đối với các chân lý chắc thật (tứ đế). Hoạt dụng của nghi là làm chướng ngại thiện pháp và trở ngại tâm không hoài nghi. Chính tâm lý do dự (hoài nghi) mà điều lành chẳng thể phát sanh.
3. Ác kiến (thấy biết sai lầm): Ðặc tánh của tâm sở này là hiểu biết, suy luận điên đảo về các chân lý chắc thật (tứ đế). Hoạt dụng của ác kiến là làm chướng ngại sự thấy biết thiện pháp (chân chánh) và gây tạo tội khổ. Chính sự thấy biết điên đảo (thác loạn) mà khổ đau (phải chịu) càng thêm nhiều. Ác kiến có 5 loại: một là, thân kiến (chấp có sự tồn tại của ngã); hai là, biên kiến (chấp một bên: thường kiến, chết rồi vẫn thường còn, [hay"> đoạn kiến, chết rồi thì mất hẳn); ba là, tà kiến (phủ định lý nhân quả); bốn là, kiến thủ (chấp kiến giải sai lầm cho là chân lý); năm là, giới cấm thủ (chấp giữ những tục lệ cổ hủ, giới luật sai lầm).
Mười phiền não tiểu tùy: (do mỗi loại tự lực sanh khởi, phạm vi tương ưng nhỏ hẹp, nên gọi là tiểu)
1. Phẫn (giận dỗi): Ðặc tánh của tâm sở này là nổi giận với cảnh trái nghịch trước mắt. Hoạt dụng của phẫn là muốn chống trả và chướng ngại tâm không nổi giận. Người nổi giận thì phần nhiều biểu lộ qua cử chỉ và nét mặt hung dữ.
2. Hận (oán hờn): Ðặc tánh của tâm sở này là kết oán, do trước đó nổi giận, sau ôm lòng oán gheùt không tha. Hoạt dụng của hận là nóng nảy và chướng ngại tâm không oán hờn. Người oán hờn thì không thể nuốt hận, chấp nhận, thường thì hay nóng nảy. Phẫn và hận thuộc về tâm sân.
3. Phuù (che giấu): Ðặc tánh của tâm sở này là che giấu tội lỗi của mình làm vì sợ mất tiếng tăm và lợi lộc. Hoạt dụng
của phú là ăn năn, buồn phiền và chướng ngại tâm không che giấu. Người che giấu tội lỗi thì sau đó thường hối hận, phiền muộn, tâm không an ổn. Phú thuộc về tâm tham và si.
4. Não (bực tức): Ðặc tánh của tâm sở này là bực tức, do trước phẫn hận (giận hờn), chạm nọc thành hung dữ. Hoạt dụng của não là châm chích đối phương (qua cử chỉ và lời nói) và chươùng ngại tâm không bực tức. Não thuộc về tâm sân.
5. Tật (ganh ghét): Ðặc tánh cuûa tâm sở này là ganh ghét, thà mình bỏ mạng chạy theo danh lợi chứ chẳng chịu người khác được thăng tiến. Hoạt dụng của tật là lo rầu và chướng ngại tâm không ganh ghét. Người có lòng đố kỵ thì khi thấy, nghe người khác được vinh hoa liền ôm lòng sầu khổ, lo buồn, tâm không an ổn. Tật thuộc về tâm sân.
6. Xan (keo bẩn): Ðặc tánh của tâm sở này là bỏn xẻn, không chịu xả bỏ tiền tài hay chia sẻ giáo pháp cho người. Hoạt dụng của xan là keo kiệt, tích chứa và chướng ngại tâm không bỏn xẻn. Người bỏn xẻn thường có tâm lý hẹp hòi, keo rít, ưa tích chứa tài vật mà không muốn cho người. Xan thuộc về tâm tham.
7. Cuống (dối trá): Ðặc tánh của tâm sở này là giả dối, qủi quyệt bằng cách giả bộ biểu hiện là người có đức để được lợi dưỡng và tiếng khen. Hoạt dụng của cuống là mưu sanh bất chánh (= tà mạng: cách sống không trong sạch) và chướng ngại tâm không dối trá. Người dối trá thì lòng ôm ấp toan tính, thường biểu lộ nhiều việc không thật và cách sống không trong sạch. Cuống thuộc về tâm tham và si.
8. Siểm (dua nịnh): Ðặc tánh của tâm sở này là dua nịnh quanh co chỉ để lừa dối người bằng cái vẻ bề ngoài khác với nội tâm (= là miệng và ý tự mâu thuẩn nhau, và mâu thuẩn với đạo pháp). Hoạt dụng của siểm khúc là nói năng bợ đỡ, nịnh hót và chướng ngại tâm không dua nịnh (= tâm chất trực). Dua nịnh quanh co chỉ để dối trá người bằng cách dối lập những phương cách làm sao lấy lòng người khác, biết khi nào thì a dua, khi nào thì quanh co. Siểm khúc còn có nghĩa là khéo (quanh co) che giấu lầm lỗi của mình, bất chấp lời khuyên răn chân thành của thầy bạn. Siểm thuộc về tâm tham và si.
9. Hại (tổn hại): Ðặc tánh của tâm sở này là làm thương tổn và rối loạn về mặt tâm lý của người khác, do thiếu lòng bi mẫn. Hoạt dụng của hại là lấn hieáp khiến cho người sanh bực tức, và chướng ngại tâm không tổn hại. Người có tâm tổn hại thì ưa thích thấy người khác sầu khổ. Hại thuộc về tâm sân.
...